Nguyên nhân Đau trong ung thư

Khoảng 75 phần trăm cơn đau của ung thư là do chính tình trạng bệnh; hầu hết phần còn lại đau xảy ra trong quá trình chẩn đoán và điều trị.[15]

Khối u

Các khối u gây đau bằng cách làm tổn thương hoặc thâm nhiễm tổ chức mô, gây nhiễm trùng hoặc viêm, hoặc phóng thích các hóa chất làm cho các kích thích bình thường không gây đau cũng trở thành gây đau.

Đau xương là loại phổ biến nhất của cơn đau do ung thư. Nó thường được cảm thấy đau âm ỉ, với cơn đau nền liên tục và các trường hợp trầm trọng tự phát hoặc liên quan đến di động, và thường được mô tả là nghiêm trọng.[16][17] Gãy xương sườn thường gặp ở ung thư vú, tuyến tiền liệt và các ung thư khác với di căn xương sườn.[18]

Hệ tuần hoàn (mạch máu) có thể chịu ảnh hưởng bởi các khối u. Khoảng 15 đến 25% huyết khối tĩnh mạch sâu nguyên nhân do ung thư (thường là do khối u đè ép vào tĩnh mạch), và đó cũng có thể là dấu hiệu gợi ý đầu tiên cho thấy sự có mặt của ung thư. Với triệu chứng sưng và đau ở chân, đặc biệt là bắp chân và (hiếm khi) ở cánh tay.[18] Tĩnh mạch chủ trên (một tĩnh mạch lớn vận chuyển lưu thông máu khử oxy về tim) có thể bị đè ép bởi một khối u, gây ra hội chứng tĩnh mạch chủ trên, có thể gây đau ngực cũng như một số triệu chứng khác.[18][19]

Khi khối u đè ép, xâm lấn hoặc làm sưng viêm những phần của hệ thần kinh (như não, tủy sống, dây thần kinh, hạch hoặc plexa), chúng gây đau và kèm theo các triệu chứng khác.[16][20] Dù mô não không chứa cảm biến đau, nhưng khối u não vẫn có thể gây đau bằng cách chèn ép vào mạch máu hoặc màng bao phủ não (màng não), hay gián tiếp làm tích tụ dịch (phù nề) gây đè ép vào các tổ chức mô nhạy cảm - đau.[21]


Đau do ung thư phía trong xương chậu thay đổi tùy thuộc vào tổ chức mô chịu ảnh hưởng. Đau có thể xuất hiện tại vị trí ung thư nhưng thường đau lan tỏa lên phía trên đùi, và có thể đau đến thắt lưng, bộ phận sinh dục ngoài hoặc đáy chậu.[16]

Thủ thuật chẩn đoán

Một số thủ thuật chẩn đoán, như chọc đốt sống thắt lưng, tiêm tĩnh mạch, chọc hút, và chọc dò ngực cũng có thể gây đau đớn.[22]

Phương pháp điều trị

Thuốc hóa trị

Một số phương pháp điều trị ung thư có khả năng gây đau bao gồm:

  • Liệu pháp miễn dịch có thể gây đau khớp hoặc cơ;
  • Xạ trị, có thể gây phản ứng da, viêm ruột, xơ hóa, bệnh tủy sống, hoại tử xương, bệnh thần kinh hoặc rối loạn thần kinh;
  • Hóa trị, thường kết hợp hóa trị gây ra bệnh lý thần kinh ngoại biên, viêm niêm mạc, đau khớp, đau cơ và đau bụng do tiêu chảy hoặc táo bón;
  • Liệu pháp hormon, đôi khi gây ra các cơn đau bộc phát;
  • Liệu pháp nhắm trúng đích, chẳng hạn như trastuzumabrituximab, có thể gây đau cơ, khớp hoặc ngực;
  • Thuốc ức chế mạch máu như bevacizumab, đôi khi được biết là gây đau xương;
  • Phẫu thuật, có thể gây đau sau phẫu thuật, đau sau cắt cụt hoặc đau cơ sàn chậu.

Nhiễm trùng

Những thay đổi hóa học liên quan đến nhiễm trùng của một khối u hoặc mô lân cận có thể gây đau một cách nhanh chóng, nhưng nhiễm trùng là nguyên nhân thường bị bỏ qua. Một nghiên cứu[23] thấy rằng nhiễm trùng là nguyên nhân gây đau trong 4% của gần 300 người mắc bệnh ung thư được giới thiệu để hỗ trợ giảm đau. Một báo cáo khác mô tả bảy người bị ung thư, mà trước đó cơn đau đã được kiểm soát tốt nhưng lại gia tăng đáng kể chỉ trong vài ngày. Điều trị kháng sinh giúp giảm cơn đau trong vòng ba ngày cho tất cả trường hợp.[16][24]